THÀNH ỦY HÀ NỘI
--------
|
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
----------------
|
Số: 02-CTr/TU
|
Hà Nội, ngày 29 tháng 8 năm 2011
|
CHƯƠNG
TRÌNH
PHÁT TRIỂN
NÔNG NGHIỆP, XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI, TỪNG BƯỚC NÂNG CAO ĐỜI SỐNG NÔNG DÂN GIAI
ĐOẠN 2011 – 2015
Nông thôn thành phố Hà Nội với diện tích
đất sản xuất nông, lâm nghiệp trên 192 ha, dân số trên 4 triệu người, chiếm
trên 60% lực lượng lao động của toàn Thành phố, là nơi cung cấp nguồn nhân lực
xây dựng Thủ đô, đất đai cho phát triển, xây dựng hạ tầng và đô thị, cung cấp lương
thực, thực phẩm, góp phần quan trọng bảo đảm an ninh, quốc phòng cho Thành phố
nên có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong quá trình xây dựng và phát
triển Thủ đô.
Để sản xuất nông nghiệp phát triển nhanh,
bền vững theo hướng sản xuất hàng hóa, giá trị, hiệu quả kinh tế cao; xây dựng
nông thôn mới phát triển theo quy hoạch, cơ sở hạ tầng được từng bước đầu tư
đồng bộ, hiện đại đảm bảo môi trường sinh thái, đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân nông thôn không ngừng được nâng cao, Ban Chấp hành Đảng bộ Thành
phố xây dựng Chương trình “Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn
mới, từng bước nâng cao đời sống nông dân” giai đoạn 2011 – 2015, nhằm
cụ thể hóa và tổ chức thực hiện Nghị quyết XV, Đại hội Đảng bộ Thành phố với
những nội dung cơ bản như sau:.
PHẦN THỨ
NHẤT
TÌNH HÌNH
PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, XÂY DỰNG NÔNG THÔN VÀ NÂNG CAO ĐỜI SỐNG NÔNG DÂN, GIAI
ĐOẠN 2006 - 2010
I- NHỮNG
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1- Thực
hiện Chương trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới của Đại hội
XIV Đảng bộ Thành phố, 5 năm qua, lĩnh vực sản xuất nông nghiệp có nhiều tiến
bộ và đạt được những kết quả quan trọng; cơ cấu nội ngành chuyển dịch theo
hướng tích cực: tăng tỷ trọng chăn nuôi, thủy sản và dịch vụ nông nghiệp. Tỷ
trọng giá trị sản xuất các ngành trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, dịch vụ nông
nghiệp là: 42,9% - 50,0% - 4,45% - 2,37%. Giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp
giai đoạn 2006 – 2010 đạt bình quân 1,75% năm; tổng sản lượng lương thực đạt
trên 1 triệu tấn/ năm; an ninh lương thực được bảo đảm tốt hơn; một số chỉ tiêu
chủ yếu khác đều đạt và vượt kế hoạch. Cơ cấu cây trồng chuyển dịch theo hướng
hiệu quả: diện tích trồng hoa, cây cảnh, cây ăn quả đặc sản tiếp tục được mở
rộng.
Việc ứng dụng kỹ thuật, công nghệ tiên
tiến vào sản xuất được coi trọng; bước đầu đã hình thành một số vùng chuyên
canh sản xuất nông sản hàng hóa tập trung với năng suất và giá trị thu nhập cao
như: vùng sản xuất lúa chất lượng cao, vùng sản xuất rau an toàn, vùng cam
Canh, bưởi Diễn, vùng chăn nuôi gia cầm, bò thịt, bò sữa tập trung tại các
huyện Đông Anh, Từ Liêm, Hoài Đức, Đan Phượng, Ba Vì, Thanh Trì và Mê
Linh….Nhiều hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp hoạt động có hiệu quả, các loại hình
dịch vụ nông nghiệp, thương mại, vận tải…phát triển mạnh ở các huyện, thị xã đã
góp phần tích cực thúc đẩy các hoạt động kinh tế khu vực nông thôn.
2 – Khu
vực nông thôn được chú trọng đầu tư và có nhiều biến đổi tích cực, các chương
trình của Thành ủy về phát triển kinh tế - xã hội ngoại thành được triển khai
nghiêm túc, có hiệu quả. Thành phố đã đầu tư hàng ngàn tỷ đồng để hỗ trợ phát
triển hạ tầng kinh tế - xã hội khu vực nông thôn, nhiều dự án đưa các tiến bộ
khoa học kỹ thuật ứng dụng vào sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi,
nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập cho nông dân được triển khai thực
hiện.Các công trình thủy lợi, đê điều, kè chống sạt lở bờ sông Đà, sông Hồng,
sông Đáy, sông Bùi được đầu tư cải tạo nâng cấp.
Hạ tầng nông thôn, nhất là giao thông nông
thôn, điện, nước sạch được quan tâm đầu tư. Các đường liên xã được nâng cấp,
đường liên thôn và đường làng phần lớn được bê tông hóa: 100% số xã có trạm y
tế (trong đó 77,6% trạm y tế xã có bác sỹ). Hệ thống trường học và thiết bị dạy
học được đầu tư nâng cấp, góp phần từng bước nâng cao chất lượng giáo dục ở khu
vực nông thôn. Công trình nhà văn hóa, sân vận động thể thao ở nhiều nơi được
đầu tư xây dựng khang trang, sạch đẹp. Công tác vệ sinh môi trường bước đầu đã
được quan tâm đầu tư, tỷ lệ xã, thôn được thu gom rác thải trên địa bàn Thành
phố đạt trên 74%.
3- Đời sống
nông dân được cải thiện và từng bước nâng cao, thu nhập bình quân đầu người khu
vực nông thôn đã tăng từ 5,7 triệu đồng/ năm 2006 lên trên 13 triệu đồng/ năm
2010. Nông thôn không còn nhà dột nát, đa số các hộ gia đình có nhà kiên cố,
khang trang; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân mỗi năm 1,5%; tỷ lệ dân nông thôn
được dùng nước hợp vệ sinh đạt trên 84%; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng
33%; công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nông dân có nhiều tiến bộ, chất lượng
khám chữa bệnh được nâng cao.
An ninh chính trị và trật tự an toàn xã
hội nông thôn được giữ vững, một số nơi có chuyển biến tích cực. Hệ thống các
thiết chế văn hóa từ thành phố tới nông thôn tiếp tục được đầu tư, hoàn thiện,
quy mô, chất lượng và hiệu quả hoạt động được nâng cao, cơ bản đáp ứng nhu cầu
hưởng thụ văn hóa của nông dân, nhiều hoạt động văn hóa, thể thao thường xuyên
được tổ chức đã góp phần làm phong phú đời sống tinh thần nông dân, hạn chế các
tệ nạn xã hội. Tổ chức việc cưới, việc tang, lễ hội ở nhiều nơi có tiến bộ rõ
rệt theo hướng đơn giản, tiết kiệm và văn minh.
II- HẠN
CHẾ, KHUYẾT ĐIỂM
1- Sản
xuất nông nghiệp chủ yếu vẫn là sản xuất quy mô nhỏ, phân tán, chất lượng nông
sản và hiệu quả sản xuất chưa cao; chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng vật nuôi
còn chậm. Việc xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại phát triển thị trường
tiêu thụ nông, lâm sản hàng hóa chưa được quan tâm đúng mức, sản phẩm tiêu thụ
chủ yếu là ở dạng thô, chưa qua chế biến nên giá trị và sức cạnh tranh của hàng
hóa, nông sản còn thấp. Việc hỗ trợ của Nhà nước cho sản xuất nông nghiệp còn
hạn chế, nên chưa khuyến khích được doanh nghiệp và hộ gia đình nông dân đầu tư
để tích tụ ruộng đất, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và thiết bị công nghệ mới vào
sản xuất.
2- Công
tác quy hoạch, quản lý quy hoạch xây dựng nông thôn mới còn nhiều yếu kém. Hệ
thống hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn đầu tư chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được
yêu cầu. Hạ tầng về giao thông, thủy lợi, điện phục vụ sản xuất một số nơi còn
nhiều khó khăn. Vệ sinh môi trường khu vực nông thôn ngày càng ô nhiễm nghiêm
trọng, nhất là ở các khu vực làng nghề chế biến nông sản và hộ chăn nuôi quy mô
lớn trong khu vực dân cư. Quản lý đất đai ở nhiều nơi bị buông lỏng, dẫn tới
lấn chiếm, sử dụng sai mục đích. An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội
khu vực nông thôn còn tiềm ẩn yếu tố mất ổn định, có nơi còn diễn biến phức
tạp.
3- Đời
sống và thu nhập của một số bộ phận nông dân còn thấp, chênh lệch về thu nhập
và hưởng thụ văn hóa của người dân ở khu vực nông thôn và khu vực thành thị còn
khoảng cách lớn; nhiều lao động nông thôn thiếu việc làm, thu nhập không ổn
định. Chất lượng các dịch vụ về y tế, giáo dục ở nhiều nơi chưa đáp ứng được
yêu cầu phục vụ nhân dân, tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước sạch chưa
nhiều. Tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn còn cao, đời sống một bộ phận nông dân,
nhất là ở vùng xa trung tâm còn nhiều khó khăn. Kết quả đào tạo nghề giải quyết
việc làm cho lao động nông thôn, đặc biệt là ở những nơi thu hồi đất nông
nghiệp còn nhiều hạn chế.
III-
NGUYÊN NHÂN CỦA HẠN CHẾ, KHUYẾT ĐIỂM
1- Cơ chế
chính sách khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại,
hiệu quả, chất lượng cao còn thiếu đồng bộ, còn chồng chéo, chưa rõ trọng tâm,
khó vận dụng và tổ chức thực hiện trong thực tiễn.
2- Đầu tư
cho phát triển sản xuất nông nghiệp và xây dựng hạ tầng nông thôn còn ở mức
thấp, dàn trải, chưa đáp ứng yêu cầu, chưa tương xứng với vị trí, tầm quan
trọng và đóng góp của khu vực nông thôn trong quá trình xây dựng, phát triển
Thủ đô. Trình độ, năng lực, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ cơ sở nông thôn ở
nhiều nơi còn hạn chế.
3- Một số
cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân chưa nhận thức đầy đủ về vị trí,
vai trò và tầm quan trọng của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá trình
xây dựng và phát triển Thủ đô, do vậy chưa quan tâm lãnh đạo, kiểm tra thường
xuyên, sâu sát, quyết liệt; thiếu các giải pháp cụ thể, hiệu quả để thúc đẩy
phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng hạ tầng nông thôn và nâng cao đời
sống nông dân.
PHẦN THỨ
HAI
MỤC TIÊU,
NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI, TỪNG BƯỚC
NÂNG CAO ĐỜI SỐNG NÔNG DÂN GIAI ĐOẠN 2011 - 2015
I- MỤC
TIÊU
1- Mục
tiêu chung
- Phát triển nông nghiệp theo hướng hiện
đại, sản xuất hàng hóa tập trung, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao gắn
với bảo vệ môi trường sinh thái.
- Xây dựng nông thôn mới phát triển theo
quy hoạch, có cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại, giàu bản sắc văn hóa dân tộc,
môi trường sinh thái, cảnh quan sạch đẹp, gắn kết hợp lý giữa phát triển nông
nghiệp với công nghiệp, dịch vụ và đô thị.
- Từng bước nâng cao đời sống vật chất,
văn hóa tinh thần của nông dân. Nông dân được đào tạo, tiếp thu các tiến bộ kỹ
thuật tiên tiến để phát triển sản xuất, xây dựng cuộc sống văn minh, hạnh phúc;
chú trọng giải quyết việc làm, giảm dần khoảng cách thu nhập, hưởng thụ văn hóa
giữa nông thôn và thành thị.
- Củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của
hệ thống chính trị, giữ vững an ninh chính trị và bảo đảm trật tự an toàn xã
hội ở khu vực nông thôn.
2- Mục
tiêu cụ thể đến năm 2015
2.1- Về nông nghiệp: Phấn đấu tăng trưởng sản xuất nông
nghiệp từ 1,5-2%/ năm trở lên. Giá trị sản xuất nông nghiệp thực tế đạt 231
triệu đồng/ha. Diện tích lúa hàng hóa chất lượng cao đạt 35%, diện tích trồng
rau an toàn tập trung đạt 5.500 ha, diện tích trồng hoa, cây cảnh đạt 2.160 ha,
diện tích trồng mới cây ăn quả chất lượng cao đạt 750 ha, bảo vệ và nâng cao
chất lượng diện tích rừng 23.600 ha. Chăn nuôi ổn định với đàn lợn khoảng 1,4
triệu con, đàn gia cầm khoảng 15 triệu con, đàn trâu, đàn bò khoảng 200 ngàn
con (trong đó bò sữa 15 ngàn con). Tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng hàng năm
đạt trên 400 ngàn tấn. Mỗi năm chuyển đổi được từ 200 - 250 ha ruộng trũng
trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản.
2.2- Về xây dựng nông thôn mới: Phấn đấu đến năm 2015, có trên 40% số xã
trên địa bàn Thành phố đạt chuẩn nông thôn mới. Hoàn thành quy hoạch các xã xây
dựng nông thôn mới trong năm 2012. Tỷ lệ đường giao thông nông thôn được bê
tông hóa đạt 87%, trạm y tế được kiên cố hóa đạt khoảng 98%, xã đạt chuẩn quốc
gia về y tế 100%. Tỷ lệ trường học đạt chuẩn quốc gia từ 50% - 55%. Tỷ lệ dân
số nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh đạt 100%, trong đó, tỷ lệ được dùng
nước sạch đạt 60%. Tỷ lệ thôn, xóm, cụm dân cư đạt tiêu chuẩn làng văn hóa 68%;
tỷ lệ thôn, xóm, cụm dân cư có nhà văn hóa – thể thao đạt 92%. Có 100% số cơ sở
giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và hoàn thành các chi tiêu
về an ninh, quốc phòng.
2.3- Về nâng cao đời sống nông thôn: Thu nhập của nông dân phấn đấu đạt
25 triệu đồng/người/ năm, tỷ lệ lao động nông nghiệp còn dưới 20% lao động xã
hội; lao động nông nghiệp qua đào tạo phấn đấu đạt 55%, trung bình mỗi năm giải
quyết việc làm cho 70.000 – 75.000 lao động nông thôn, giảm tỷ lệ hộ nghèo bình
quân 1,5-1,8%/năm.
II- NHIỆM
VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
1- Về phát
triển sản xuất nông nghiệp
1.1. Hoàn thành xây dựng quy hoạch tổng
thể phát triển sản xuất nông nghiệp và các quy hoạch chuyên ngành
Thành phố tập trung chỉ đạo, đầu tư kinh
phí lập, điều chỉnh, bổ sung hoàn thành các quy hoạch: Quy hoạch tổng thể phát
triển nông nghiệp, quy hoạch thủy lợi, quy hoạch chăn nuôi, quy hoạch thủy sản,
quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng, quy hoạch đê điều… Chất lượng quy hoạch
phải có tầm nhìn rộng, cơ sở khoa học và thực tiễn cao, thống nhất, đồng bộ,
phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô. Thời
gian hoàn thành xong trong năm 2012.
Các huyện, thị xã triển khai xây dựng các
quy hoạch chi tiết của địa phương, phù hợp với các quy hoạch chuyên ngành của
Thành phố và tổ chức thực hiện, quản lý quy hoạch theo đúng quy định hiện hành.
Các cơ quan chức năng của Thành phố tăng
cường công tác kiểm tra, xử lý nghiêm, đúng quy định của pháp luật đối với các
công trình, dự án thực hiện không đúng quy hoạch để đảm bảo tính thống nhất của
quy hoạch và sự phát triển bền vững của nông nghiệp.
1.2. Rà soát,bổ sung và ban hành các cơ
chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp, nông dân dồn điền, đổi thửa, đầu tư
phát triển sản xuất nông nghiệp
Thành phố chỉ đạo các cơ quan chuyên môn
thực hiện việc rà soát, điều chỉnh, bổ sung và ban hành các cơ chế, chính sách
khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa với quy mô hợp lý,
trong đó tập trung một số vùng có điều kiện thuận lợi với quy mô sản xuất lớn
tập trung, ứng dụng công nghệ cao, an toàn vệ sinh thực phẩm. Tập trung hỗ trợ
về giống, đào tạo kỹ thuật, vật tư, thiết bị phục vụ sản xuất và chế biến, bảo
quản nông sản, hạ tầng kỹ thuật các vùng sản xuất chăn nuôi, trồng trọt tập
trung, dồn điền, đổi thửa để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm nông sản.
Các cơ chế, chính sách ban hành cần cụ
thể, đồng bộ, sát thực tế, thuận tiện và đơn giản trong tổ chức thực hiện; mức
hỗ trợ phải đảm bảo để khuyến khích doanh nghiệp và nông dân hăng hái đầu tư
sản xuất, đúng các quy định pháp luật hiện hành. Hằng năm UBND Thành phố, UBND
các huyện, thị xã chủ động bố trí nguồn ngân sách nhà nước để đảm bảo thực hiện
các chính sách hỗ trợ được kịp thời, hiệu quả.
1.3. Tổ chức triển khai thực hiện có hiệu
quả các chương trình, đề án trọng tâm, phát triển các loại cây trồng, vật nuôi
có giá trị kinh tế cao.
Thành phố chỉ đạo sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn phối hợp với các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thị xã xây
dựng các chương trình, đề án trọng tâm, phát triển sản xuất các loại cây trồng,
vật nuôi có giá trị kinh tế cao như: Phát triển sản xuất lúa hàng hóa chất
lượng cao, phát triển sản xuất và tiêu thị rau an toàn, phát triển cây ăn quả
đặc sản, phát triển sản xuất hoa, cây cảnh có giá trị kinh tế cao, phát triển
vùng chè chất lượng cao, chuyển đổi rừng keo, bạch đàn sang trồng rừng sinh
thái, cơ giới hóa nông nghiệp, phát triển chăn nuôi hàng hóa xa khu dân cư,
phát triển nuôi trồng thủy sản… Các chương trình, đề án xây dựng phải có tính
khả thi cao, đầu tư đồng bộ, phân công rõ trách nhiệm trong tổ chức thực hện để
từng bước hình thành và mở rộng các vùng sản xuất chuyên canh tập trung.
Thành phố bố trí nguồn lực đầu tư xây dựng
một số cơ sở làm nhiệm vụ nghiên cứu, khảo nghiệm, tuyển chọn các loại giống
cây trồng, vật nuôi, giống thủy sản có năng suất cao, chất lượng cao để đưa vào
sản xuất. Đồng thời hỗ trợ các doanh nghiệp, hộ gia đình sản xuất giống thương
phẩm đảm bảo chất lượng theo quy định để đáp ứng cho nhu cầu sản xuất đại trà,
không để nông dân thiếu giống tốt hoặc mua phải giống kém chất lượng.
1.4. Xây dựng đội ngũ cán bộ kỹ thuật nông
nghiệp ở cơ sở và tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ kỹ thuật cho nông dân
để đẩy nhanh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất
Thành phố chỉ đạo Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, sở Nội vụ phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu xây
dựng đề án cán bộ khoa học kỹ thuật về cơ sở theo hướng mỗi xã có sản xuất nông
nghiệp được bố trí 01 viên chức kỹ thuật trồng trọt và 01 viên chức kỹ thuật
chăn nuôi có trình độ từ cao đẳng trở lên làm nhiệm vụ tham mưu cho UBND cấp xã
về phát triển sản xuất nông nghiệp và thực hiện việc hướng dẫn, chuyển giao các
tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất nông nghiệp cho hộ nông dân.
HĐND, UBND các cấp bố trí tăng thêm kinh
phí hàng năm đầu tư đào tạo, tập huấn, dạy nghề nông nghiệp kỹ thuật cao cho
nông dân theo hướng nông dân phải được học tập đầy đủ cả về kỹ thuật, quản lý
sản xuất, liên kết tổ chức thị trường tiêu thụ sản phẩm gắn với thực hành tại
chỗ. Thành phố đầu tư xây dựng một trung tâm đào tạo và thực hành sản xuất nông
nghiệp công nghệ cao với quy mô đào tạo từ 1.800 – 2.000 lao động nông
nghiệp/năm theo hướng Nhà nước đầu tư xây dựng toàn bộ hạ tầng và các công
trình phục vụ giảng dạy; hỗ trợ hộ gia đình, doanh nghiệp đầu tư các mô hình
sản xuất trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản….ứng dụng công nghệ để nông dân thực
hành tại chỗ.
1.5. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước
các cấp, nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX nông nghiệp, phát triển mới
các hợp tác xã ngành nghề, dịch vụ ở nông thôn
Thành phố tăng cường đầu tư nguồn nhân lực
cho đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ quản lý và kỹ thuật
ngành nông nghiệp các cấp, đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và thiết bị tiên tiến
để nâng cao khả năng chẩn đoán và phòng chống dịch bệnh cho cây trồng, vật
nuôi, kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm, kiểm soát chất lượng các loại vật tư,
phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật….để hạn chế rủi
ro và nâng cao hiệu quả sản xuất cho nông dân.
Tiến hành rà soát, đánh gia hoạt động của
các HTX nông nghiệp để phân loại chất lượng, trình độ quản lý, điều hành của
cán bộ, trên cơ sở đó xây dựng đề án củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động để
HTX nông nghiệp thực sự là một tổ chức kinh tế có vai trò thúc đẩy sản xuất
nông nghiệp ở cơ sở. Hỗ trợ, khuyến khích phát triển và thành lập mới các HTX
chuyên ngành trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ, thương mại, vận tải, tiểu thủ công
nghiệp…. theo luật HTX để tập hợp lao động nông thôn đoàn kết, hỗ trợ nhau sản
xuất và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
1.6. Tăng cường đầu tư xúc tiến thương
mại, quảng bá sản phẩm để hỗ trợ doanh nghiệp, hộ nông dân tiêu thụ nông sản
Thành phố cần chủ động có các giải pháp cụ
thể tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng hợp
tác sản xuất và chế biến nông sản với các tỉnh trong nước và nước ngoài. Hỗ trợ
cho doanh nghiệp, nông dân tổ chức và tham gia các hội chợ, các triển lãm hàng
nông sản và làng nghề; xây dựng nhãn hiệu sản phẩm hàng hóa, nâng cao khả năng
cạnh tranh của nông sản và sản phẩm làng nghề của Thủ đô.
Tiếp tục đầu tư, nâng cấp hệ thống chợ đầu
mối nông, lâm sản ở các vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp và vùng phụ cận đô
thị; hỗ trợ, nâng cấp xây dựng các chợ nông thôn, các cơ sở chế biến nông, lâm
sản, thực phẩm; đầu tư xây dựng trung tâm giao dịch và giới thiệu hàng hóa nông
sản, sản phẩm làng nghề chất lượng cao Hà Nội; thành lập đơn vị sự nghiệp trực
thuộc sở NNPTNT làm nhiệm vụ giúp cho doanh nghiệp và nông dân quảng bá, giới
thiệu sản phẩm, xây dựng nhãn hiệu hàng hóa và hướng dẫn, hỗ trợ tổ chức tiêu
thụ nông sản, sản phẩm làng nghề.
2- Xây
dựng nông thôn mới
2.1. Tập trung tuyên truyền, nâng cao nhận
thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng và
trách nhiệm xây dựng nông thôn mới
Các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể tập
trung chỉ đạo và tổ chức quán triệt, tuyên truyền sâu rộng tới toàn thể cán bộ,
đảng viên và nhân dân về mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của việc xây dựng
nông thôn mới trong quá trình xây dựng và phát triển của Thủ đô. Ban Tuyên
giáo, Ban Dân vận Thành ủy, các cơ quan truyền thông, báo chí, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị - xã hội Thành phố phối hợp chặt chẽ với Sở NNPTNT
xây dựng kế hoạch, nội dung công tác tuyên truyền và tổ chức tuyên truyền, nhằm
tạo sự đồng thuận và nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần tự giác hăng hái
tham gia xây dựng nông thôn mới cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.
Các cơ quan thông tin, báo chí của Thành
phố tăng thêm thời lượng tuyên truyền, giới thiệu các điển hình tiên tiến,
phương pháp hay, sáng kiến, sáng tạo trong xây dựng nông thôn mới ở cơ sở, kịp
thời phê phán những nơi triển khai thụ động, kém hiệu quả, trông chờ vào sự đầu
tư của Nhà nước.
2.2. Thường xuyên chăm lo công tác đào
tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành cho đội ngũ cán
bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể ở cơ sở, đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới
Thành phố chỉ đạo Sở NNPTNT phối hợp với
các cơ quan chuyên môn xây dựng chương trình và tổ chức đào tạo, tập huấn kiến
thức về quản lý và tổ chức thực hiện xây dựng nông thôn mới cho hệ thống cán bộ
cơ sở từ cấp bí thư chi bộ, trưởng, phó thôn trở lên. Nội dung, thời lượng kiến
thức của chương trình phải phù hợp với thực tiễn và trình độ của cán bộ cơ sở,
kết hợp giữa lý thuyết với tham quan thực tế các điển hình ở trong và ngoài
nước. Phấn đấu đến hết năm 2012 hoàn thành giai đoạn đào tạo kiến thức cơ bản,
đến hết năm 2014 hoàn thành giai đoạn đào tạo nâng cao.
2.3. Tập trung huy dộng các nguồn lực của
Nhà nước và xã hội đầu tư xây dựng nông thôn mới
Ngân sách nhà nước các cấp hàng năm dành
tối thiểu 35% đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới đáp ứng
yêu cầu của Nghị quyết 03-NQ/TU ngày 21/4/2010 của HĐND Thành phố bề xây dựng
nông thôn mới giai đoạn 2010- 2020, định hướng đến năm 2030. Trong đó đầu tư
trực tiếp cho các chương trình phát triển sản xuất nông nghiệp từ 6-8% (không
kể vốn đầu tư xử lý khẩn cấp cho thủy lợi, đê điều và phòng chống lụt bão).
Trọng tâm là đầu tư, hoàn thành công tác quy hoạch, xây dựng nông thôn mới các
xã trong năm 2012, xây dựng cơ sở hạ tấng thiết yếu về kinh tế - xã hội nông
thôn như: đường giao thông, hệ thống thủy lợi, các công trình y tế, giáo dục,
văn hóa, nước sạch nông thôn, xử lý môi trường các làng nghề chế biến nông lâm
sản bị ô nhiễm nặng, xây dựng các cơ sở thu gom các xử lý rác thải, hạ tầng các
vùng sản xuất nông sản hàng hóa, thực hện các chương trình phát triển nông
nghiệp, đào tạo nghề cho nông dân. Tăng cường phân cấp để tạo nguồn thu và
khuyến khích các huyện, thị xã tập trung ngân sách và dành nguồn thu từ đất đầu
tư trở lại cho nông nghiệp, nông thôn.
UBND các cấp bố trí ngân sách hàng năm để
hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp, cá nhân đầu tư phát triển sản xuất, chế
biến, tiêu thụ nông sản hàng hóa khu vực nông thôn, đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ
thuật và dịch vụ, phát triển các làng nghề, các cụm, điểm tiểu thủ công nghiệp
để giải quyết việc làm tại chỗ, tăng thu nhập cho nông dân.
Vận động hướng dẫn các hộ gia đình nông
dân tập trung nguồn lực đầu tư phát triển sản xuất, chỉnh trang nhà cửa, xây
dựng đường thôn, xóm và các công trình văn hóa, xây dựng nếp sống văn minh và
giữ gìn cảnh quan môi trường sạch đẹp. Đa dạng hóa các hình thức đóng góp bằng
tiền, bằng ngày công lao động, bằng vật tư, tài sản. Tích cực vận động nhân dân
hiến đất để mở rộng đường giao thông, chỉnh trang các cơ sở văn hóa, y tế, giáo
dục…
2.4. Hệ thống chính trị Thành phố tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết liệt, đồng bộ xây dựng nông thôn mới,
giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội
Các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể,
các cơ quan trên cơ sở Nghị quyết số 03/2010/NQ-HĐND, ngày
21/4/2010 của HĐND Thành phố về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020,
định hướng đến năm 2030, Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày
04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về
xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020 và các văn bản hướng dẫn của Trung
ương và Thành phố, chủ động xây dựng kế hoạch triển khai xây dựng nông thôn mới
theo từng tiêu chí thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, đơn vị mình và phối
hợp tổ chức chỉ đạo thưc hiện. Đồng thời, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, hướng
dẫn cơ sở thực hiện, định kỳ sơ kết hàng năm để đánh giá kết quả và đề xuất các
giải pháp thực hiện hiệu quả.
Các đơn vị quân đội, công an Thành phố
tăng cường công tác huấn luyện, giáo dục chính trị tư tưởng để nâng cao trình
độ, năng lực và sức chiến đấu của lực lượng vũ trang Thành phố, phối hợp cùng
với chính quyền các cấp xử lý, giải quyết kịp thời các vụ việc phức tạp phát
sinh, giữ vững an ninh chính trị ở nông thôn. Lãnh đạo hoàn thành tốt các nhiệm
vụ về quốc phòng và an ninh để đảm bảo giữ vững ổn định an ninh chính, trật tự
an toàn xã hội của thành phố.
3- Từng
bước nâng cao đời sống nông dân
3.1. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật
tiên tiến để tăng nhanh năng suất, hiệu quả của sản xuất nông nghiệp, nâng cao
thu nhập cho nông dân
Trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển
sản xuất nông nghiệp của Thành phố, các sở: Nông nghiệp và PTNT, KHCN phối hợp
với các trường đại học, các cơ sở nghiên cứu khoa học của Trung ương trên địa
bàn Thành phố tập trung đầu tư nghiên cứu, hướng dẫn chuyển giao tiến bộ kỹ
thuật mới, tiên tiến về giống, kỹ thuật thâm canh cho nông dân ứng dụng vào sản
xuất để tạo ra các sản phẩm nông nghiệp có chất lượng cao, an toàn vệ sịnh thực
phẩm như: gạo thơm, rau an toàn, hoa, quả cao cấp, thịt, trứng, sữa…. Đồng thời
cải tiến phương pháp thu hoạch, bảo quản, chế biến để tăng thêm giá trị thu
nhập trên một ha đất sản xuất nông nghiệp mỗi năm từ 6-8%, nâng cao hiệu quả
thu nhập cho nông dân.
3.2. Phát triển và mở rộng các khu, cụm
công nghiệp và làng nghề để giải quyết việc làm cho nông dân, thúc đẩy chuyển
dịch lao động nông thôn
Thành phố tiếp tục đầu tư xây dựng mới và
mở rộng các khu, cụm công nghiệp; các làng nghề để giải quyết việc làm tại chỗ,
tăng thu nhập cho lao động nông thôn. Đến năm 2015, hoàn thành xây dựng mới 21
cụm công nghiệp với diện tích 726 ha. Phát triển làng nghề đạt 1.500 làng,
trong đó có 525 làng nghề truyền thống được công nhận để thu hút tối thiểu 50%
lao động trong nông thôn vào làm việc. Việc phát triển các làng nghề, cụm công
nghiệp phải đi đôi với việc bảo vệ môi trường và khuyến khích đầu tư đổi mới
công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm làng nghề.
3.3. Phát triển hệ thống dịch vụ để từng
bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng dần tỷ trọng công
nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng về nông nghiệp
UBND các cấp dành kinh phí đầu tư, nâng
cấp chợ nông thôn, hỗ trợ xây dựng các trung tâm thương mại cấp huyện, cấp xã,
để thu hút nguồn hàng phục vụ nhu cầu nhân dân nông thôn. Các cơ quan chuyên
môn hướng dẫn, vận động, tuyên truyền và hỗ trợ thành lập, phát triển các hợp
tác xã dịch vụ về vận tải, xây dựng, tín dụng…để vừa đảm bảo phục vụ nhu cầu
của nhân dân nông thôn vừa tăng dần tỷ trọng dịch vụ trong cơ cấu kinh tế và
thu hút chuyển dịch lực lượng lao động. Tạo điều kiện và hỗ trợ các doanh
nghiệp đầu tư xây dựng hạ tầng và các cơ sở dịch vụ về thông tin, văn hóa, y
tế, giáo dục để thúc đẩy tăng trưởng về dịch vụ nông thôn hàng năm đạt 10% trở
lên.
3.4. Tổ chức thực hiện tốt các chính sách
an sinh xã hội đối với nông dân
Thường xuyên chăm lo nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của nông dân, nhất là các hộ nghèo, các hộ cận nghèo và các gia
đình chính sách. Tăng đầu tư cho công tác dạy nghề cho nông dân gắn với phát
triển sản xuất hàng hóa để tạo ra nhiều việc làm và tăng thu nhập cho nông dân.
Phấn đấu tốc độ tăng trưởng khu vực nông thôn bình quân từ 7-8%/năm.
Tổ chức thực hiện tốt các chính sách an
sinh xã hội ở khu vực nông thôn, hỗ trợ các hộ nghèo, các hộ cận nghèo phát
triển sản xuất để thoát nghèo bền vững, quan tâm hỗ trợ các gia đình chính
sách, gia đình khó khăn. Ngành lao động thương binh xã hội nghiên cứu thí điểm
việc tổ chức và lập quỹ hưu nông dân; ngành y tế triển khai mở rộng mô hình bảo
hiểm y tế tự nguyện cho nông dân đạt 70-80% trở lên; ngành nông nghiệp và phát
triển nông thôn phối hợp với cơ quan bảo hiểm thực hiện thí điểm bảo hiểm sản
xuất nông nghiệp để hạn chế thiệt hại và rủi ro cho nông dân.
Đầu tư xây dựng, nâng cấp các công trình văn
hóa, thể thao, hạ tầng thông tin, giải trí, thư viện để nâng cao mức hưởng thụ
văn hóa, tinh thần cho nông dân. Đặc biệt chú ý đầu tư các công trình vui chơi
lành mạnh cho trẻ em, các khu tập luyện, thể dục thể thao cho nông dân, nhất là
người cao tuổi. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng phong trào toàn dân đoàn kêt,
xây dựng làng, khu phố, cơ quan văn hóa. Đồng thời có các giải pháp hạn chế các
tiêu cực phát sinh trong việc cưới, việc tang, lễ hội. Giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc, giữ gìn và tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống, các
di sản vật thể và phi vật thể nông thôn.
PHẦN THỨ BA
TỔ CHỨC
THỰC HIỆN
Để triển khai thực hiện có hiệu quả các
nội dung của Chương trình, Thành ủy phân công tổ chức thực hiện như sau:
1- Ban Cán
sự Đảng UBND Thành phố chỉ đạo UBND Thành phố xây dựng kế hoạch Chương trình
hàng năm, báo cáo Ban Thường vụ Thành ủy; giao nhiệm vụ cụ thể cho các sở, ban,
ngành, UBND các quận, huyện, thị xã tổ chức triển khai thực hiện. Chỉ đạo xây
dựng và ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp,
xây dựng nông thôn mới. Chỉ đạo các sở, ngành xây dựng các đề án, dự án đầu tư
và bố trí đủ nguồn lực để đảm bảo triển khai thực hiện các đề án, dự án đã xây
dựng có hiệu quả, đúng tiến độ, đạt các mục tiêu của Chương trình đề ra.
2- Đảng
đoàn HĐND Thành phố chỉ đạo HĐND Thành phố tiếp tục nghiên cứu, ban hành nghị
quyết về các cơ chế, chính sách khuyến khích hỗ trợ đầu tư phát triển sản xuất
nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; bố trí đủ nguồn lực thực hiện đạt các
chỉ tiêu của Chương trình hàng năm. Tổ chức kiểm tra và thực hiện nhiệm vụ giám
sát các cơ quan, đơn vị thuộc Thành phố, HĐND và UBDN các quận, huyện, thị xã
trong quá trình chỉ đạo và tổ chức thực hiện Chương trình.
3- Các ban
đảng Thành ủy theo chức năng, nhiệm vụ được giao phối hợp và chỉ đạo các cơ
quan liên quan triển khai công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức và vận động
cán bộ, nhân dân tích cực tham gia thực hiện Chương trình. Đồng thời tổ chức
giám sát, kiểm tra cấp ủy các quận, huyện, thị xã, các cơ quan Thành phố trong
quá trình triển khai thực hiện Chương trình.
4- Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội Thành phố tổ chức tuyên truyền,
vận động cán bộ, đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân hăng hái, tự giác
tham gia phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, từng bước
nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nông dân.
5- Các
huyện ủy, thị ủy căn cứ nội dung Chương trình, chỉ đạo UBND cùng cấp xây dựng
kế hoạch thực hiện cụ thể của cấp mình, phù hợp với nguồn lực và điều kiện của
địa phương; hàng năm bố trí ngân sách, chỉ đạo tổ chức thực hiện và giám sát
việc thực hiện đảm bảo hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch của cấp mình.
6- Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
(cơ quan Thường trực Ban chỉ đạo Chương trình) phối hợp với Văn phòng Thành ủy,
Văn phòng UBND Thành phố có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc, tổng hợp tình hình
thực hiện Chương trình, định kỳ báo cáo Ban Thường vụ Thành ủy, Ban Chỉ đạo
Chương trình của Thành phố./.
|
T/M THÀNH ỦY
BÍ THƯ
Phạm Quang Nghị
|
Ctr_02-TU_HN.docx